Để thực hiện điều này, ngoài việc xây dựng kho phim đạt tiêu chuẩn thì việc thường xuyên đánh giá tình trạng kỹ thuật bộ sưu tập để kịp thời đưa ra các biện pháp xử lý là hết sức cần thiết. Chính vì vậy, Viện Phim Việt Nam luôn coi trọng công tác nghiên cứu công nghệ, xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm kéo dài tuổi thọ phim lưu trữ.
Hiện tại, kho phim của Viện phim Việt Nam ở hai địa điểm Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh lưu trữ gần 80.000 cuốn phim nhựa các loại, kể cả 35, 16mm, cả Nêgatíp, Positíp, các Đúp trung gian, Nê tiếng và một số lượng băng từ các loại chuẩn VHS, Umatic, Hi8, Betacam SP... Ngoài nguồn tiếp nhận phim nộp lưu trữ, lưu chiểu, Viện còn thường xuyên bổ sung tư liệu qua sưu tầm, trao đổi và quay tư liệu về con người, sự kiện của đất nước. Đây là những nguồn tư liệu quý giá cung cấp phim cho các hoạt động giải trí, tuyên truyền, giáo dục, nghiên cứu lịch sử và nghệ thuật điện ảnh, cung cấp phim làm tài liệu nghiên cứu cho các nhà lý luận, các nhà khoa học về những vấn đề lịch sử, xã hội, văn hóa, giáo dục, quân sự, về các lãnh tụ, danh nhân của nước nhà.
Bộ sưu tập phim lớn và giá trị đó là kết quả của cả một quá trình sưu tầm và bảo quản lâu dài qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Mặc dù đã được lưu trữ trong điều kiện khá tốt nhưng theo thời gian bảo quản và sau nhiều lần khai thác phổ biến, vật liệu nghe nhìn vẫn bị tổn thương, mang nhiều khuyết tật cơ, lý hóa (giòn, chua, co ngót, xước sát, bụi bẩn, phai màu, v.v.) làm tuổi thọ suy giảm. Chất lượng kỹ thuật trình chiếu, truy cập tư liệu bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Có những đề xuất chuyển các bản phim nhựa sang số hóa để lưu giữ, vì số hóa đang là xu thế chung trong việc lưu trữ hình ảnh động trên phạm vi quốc tế với nhiều ưu điểm. Nhưng lưu trữ dữ liệu số hóa lâu dài sẽ vấp phải những vấn đề khó giải quyết, bởi các định dạng dữ liệu số thay đổi rất nhanh, sớm trở nên lỗi thời và rất khó tìm công cụ hay phần mềm để đọc các dữ liệu số đó. Trong khi đó, một bộ phim nhựa được lưu kho với điều kiện đủ tốt sẽ có tuổi thọ hàng trăm năm. Phim nhựa vẫn là vật liệu có độ phân giải cao nhất, công nghệ ổn định nhất, trong khi công nghệ số là đa chuẩn và liên tục cập nhật. Vì những lí do trên nên các nhà lưu trữ vẫn coi phim nhựa là vật liệu lưu trữ chính.
Để kéo dài tuổi thọ của phim nhựa, phim cần được theo dõi, quay trở định kỳ, tu sửa và xử lý kịp thời khi có lỗi kỹ thuật phát sinh (giòn, chua, co ngót, xước sát, bụi bẩn, phai màu, v.v.). Muốn vậy, cần phải xây dựng một hệ thống các tiêu chí quy định các yêu cầu kỹ thuật đối với bản phim nhựa lưu trữ và phương pháp đánh giá nhằm có những đề xuất xử lý cho bước bảo quản tiếp theo. Đây là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách nhằm thống nhất phương pháp đánh giá phân loại tình trạng kỹ thuật bản phim nhựa lưu trữ để phục vụ công tác bảo tồn và lưu trữ phông hình ảnh động quốc gia, lên kế hoạch tu sửa phục chế các bản phim bị hư hại, khuyết tật, làm sạch các tư liệu gốc lưu trữ lâu dài trong các kho.
Trước tình hình trên, Viện Phim Việt Nam đã làm hồ sơ đăng ký và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép được thực hiện dự án "Xây dựng tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia: Bản phim nhựa lưu trữ - Yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử" trong 2 năm 2015 - 2016. Mặc dù, quá trình thực hiện vấp phải rất nhiều khó khăn như: thiếu thốn về cơ sở vật chất để kiểm nghiệm, tài liệu tham khảo còn khá hạn chế, hạn hẹp về thời gian, đặc biệt là khó khăn về nhân lực và chuyên gia do ngành Điện ảnh là ngành hẹp..., nhưng việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia vẫn có những tác động tích cực lên nhiều khu vực chuyên môn khác nhau của Viện và tạo nên những chuyển biến rất tích cực.
Như đã trình bày ở trên, để làm tốt công tác bảo quản phim, các cơ quan lưu trữ cần phải đảm bảo được hai yếu tố: thứ nhất là thường xuyên kiểm tra, đánh giá tình trạng của bộ sưu tập một cách chính xác, khoa học và thứ hai là xây dựng kho phim đạt tiêu chuẩn. Yếu tố thứ nhất đã được Viện phim thực hiện tốt thông qua các hoạt động chuyên môn và việc xây dựng TCVN "Bản phim nhựa lưu trữ - Yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử". Còn ở yếu tố thứ hai, Viện đã sở hữu một kho phim chất lượng tốt hàng đầu khu vực Đông Nam Á với điều kiện môi trường 35 ± 5oC và độ ẩm 11 ± 1oC. Tuy nhiên, nước ta vẫn chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia làm tham chiếu để khẳng định kho phim hiện tại đã đạt chuẩn hay chưa.
Trong khi đó, điều kiện bảo quản là yếu tố quyết định tuổi thọ của các loại vật liệu nghe nhìn. Ngay từ khi mới được sản xuất ra thì tất cả các loại vật liệu nghe nhìn đều đã bắt đầu quá trình phân hủy của mình. Tuy nhiên, quá trình này kéo dài bao lâu, phân hủy nhanh hay chậm thì ngoài yếu tố nội tại là bản chất vật liệu đó thì yếu tố bên ngoài có tác động lớn nhất chính là điều kiện bảo quản chúng. Trong đó, những yếu tố bảo quản mang tính chất quyết định nhất chính là nhiệt độ và độ ẩm bởi vì độ ổn định của các loại vật liệu này rất nhạy trước tác động của các yếu tố kể trên. Ngoài ra, các yếu khác cũng ảnh hưởng tới tuổi thọ của vật liệu nghe nhìn là: sự ô nhiễm không khí, vi sinh vật,... và cơ sở vật chất để đảm bảo các yếu tố kể trên như giá đặt, vỏ hộp đựng. Việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về nhóm đối tượng này là việc cần thiết để các đơn vị lưu trữ có cơ sở kỹ thuật nhằm đảm bảo duy trì tuổi thọ cho các chủng loại vật liệu nghe nhìn, lưu giữ di sản văn hóa hình ảnh động cho thế hệ mai sau. Các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về bảo quản vật liệu nghe nhìn phải nhắm đến xây dựng những yêu cầu cơ bản như nhiệt độ, độ ẩm, độ sạch không khí, kho bảo quản, các phòng lạnh, vỏ hộp đựng, tem nhãn,... để bảo quản vật liệu nghe nhìn sao cho phù hợp nhất với từng chủng loại khác nhau, phù hợp với mục tiêu bảo quản (trung hạn, dài hạn) để vừa đảm bảo hiệu quả tối đa trong bảo tồn tư liệu, vừa tiết kiệm các nguồn lực, tránh lãng phí. Tuy nhiên, nếu tự xây dựng TCVN mới thì Viện phim sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn như đã nói ở trên, đặc biệt là thiếu thốn thiết bị thử nghiệm để dự đoán tuổi thọ của các loại vật liệu nghe nhìn trong những điều kiện bảo quản khác nhau.
Quan điểm của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là các tiêu chuẩn quốc gia phải được xây dựng theo hướng hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực nên Viện cũng xác định việc xây dựng TCVN phải thực hiện trên cơ sở chấp nhận tương đương Tiêu chuẩn quốc tế. Trong thực tế, Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đã thành lập Ban kỹ thuật tiêu chuẩn ISO/TC 42 “Photography – Nhiếp ảnh” để thực hiện việc nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn quốc tế về định nghĩa ảnh tĩnh, các phương pháp thử, đo, xếp loại, đánh giá, dán nhãn, xác định và phân loại về kích thước, đặc tính vật lý, đặc điểm biểu hiện của phương tiện truyền thông, các loại vật liệu và thiết bị được sử dụng trong hình ảnh tĩnh hóa học và điện tử; yêu cầu kỹ thuật và khuyến cáo về các đặc tính vật lý và logic, giao diện và định dạng cho hệ thống ghi, gia công và xuất hình ảnh tĩnh; các phương pháp, cách đo, yêu cầu kỹ thuật và hướng dẫn thực hành để bảo quản, bảo tồn toàn vẹn và an toàn cho vật liệu và truyền thông hình ảnh, sự phân hủy của các loại vật liệu.
Cho đến nay Ban kỹ thuật tiêu chuẩn này đã xây dựng được trên 190 tiêu chuẩn quốc tế, trong đó có bộ các tiêu chuẩn quốc tế về thực hành bảo quản vật liệu hình ảnh (phim nhựa, băng từ, giấy ảnh, đĩa quang…) gồm 6 tiêu chuẩn sau:
ISO 18911: 2010 Imaging materials - Processed safety photographic films - Storage practices (Vật liệu hình ảnh - Phim ảnh an toàn đã gia công - Thực hành bảo quản)
ISO 18918:2000 Imaging materials - Processed photographic plates - Storage practices (Vật liệu hình ảnh - Phim ảnh tấm đã gia công - Thực hành bảo quản)
ISO 18920:2011 Imaging materials - Reflection prints - Storage practices (Vật liệu hình ảnh - Giấy ảnh - Thực hành bảo quản)
ISO 18923:2000 Imaging materials - Polyester-base magnetic tape - Storage practices (Vật liệu hình ảnh - Băng từ đế Polyester - Thực hành bảo quản)
ISO 18925:2013 Imaging materials - Optical disc media - Storage practices (Vật liệu hình ảnh - Đĩa quang - Thực hành bảo quản)
ISO 18928:2013 Imaging materials - Unprocessed photographic films and papers - Storage practices. (Vật liệu hình ảnh - Phim và giấy ảnh chưa gia công - Thực hành bảo quản).
Những ISO này đều đã được soát xét, sửa đổi, bổ sung nhiều lần và đi kèm với chúng là các công trình nghiên cứu khoa học, thử nghiệm, khảo nghiệm công phu, tỉ mỉ. Mặc dù một số các nội dung quy định trong tiêu chuẩn quốc tế có thể vượt quá khả năng đáp ứng hiện tại của các cơ quan lưu trữ tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc chấp nhận tương đương các tiêu chuẩn mới này sẽ giúp ngành lưu trữ nghe nhìn được định hướng tốt hơn đế xây dựng các kho bảo quản đạt tiêu chuẩn chung quốc tế, góp phần kéo dài tuổi thọ phông hình ảnh động quốc gia. Các công nghệ mới đều có thể sẵn sàng ứng dụng được, phần còn lại chỉ phụ thuộc vào tài chính và ý chí của người quản lý mà thôi. Chính vì vậy, việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về bảo quản vật liệu nghe nhìn trên cơ sở chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn quốc tế vẫn là rất cần thiết và phù hợp với tình hình nước ta hiện nay. Vì lẽ đó, Viện Phim Việt Nam đã thực hiện dự án xây dựng tiêu chuẩn quốc gia “Vật liệu hình ảnh - Phim nhựa đế an toàn đã gia công - Thực hành bảo quản” và “Vật liệu hình ảnh - Băng từ đế Polyester - Thực hành bảo quản” chấp nhận tương đương tiêu chuẩn quốc tế ISO 18911: 2010 Imaging materials - Processed safety photographic films - Storage practices và ISO 18923:2000 Imaging materials - Polyester-base magnetic tape - Storage practices thực hiện trong hai năm 2018 - 2019.
Bảo quản vật liệu nghe nhìn là bảo quản cả phần phi vật thể - nội dung tư liệu phim và phần vật thể - vật liệu mang nội dung phim. Nếu chúng ta số hóa toàn bộ tư liệu và chuyển sang lưu trữ số hoàn toàn thì chúng ta sẽ không giữ được phần vật thể của bộ sưu tập này. Vì vậy, dù đã bước vào kỷ nguyên kỹ thuật số nhưng việc xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia về bảo quản vật liệu nghe nhìn vẫn rất cần thiết. Sự xuất hiện của chúng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính khoa học và tính thống nhất của công việc chuyên môn. Để vượt qua những hạn chế trong quá trình xây dựng TCVN, chúng ta nên thực hiện theo định hướng của các nhà quản lý khoa học là chấp nhận tương đương các tiêu chuẩn quốc tế để tiêu chuẩn Việt Nam có thể hài hòa với quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, việc áp dụng những tiêu chuẩn này cũng cần phải mềm dẻo, tránh cứng nhắc để phù hợp với điều kiện thực tế về địa lý, kinh tế, xã hội của Việt Nam.
--- HẾT ---
ThS. Lê Tuấn Anh
Viện Phim Việt Nam